Vệ sinh an toàn thực phẩm trong cả nước nói chung và của thực phẩm nói riêng đang tạo nhiều lo lắng cho người dân. Thực chất, nhiều sự kiện như việc tiếp tục sử dụng những hoá chất cấm dùng trong nuôi trồng, chế biến nông thủy sản, thực phẩm, việc sản xuất một số sản phẩm kém chất lượng hoặc do quy trình chế biến hoặc do nhiễm độc từ môi trường, đang gây ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và tiêu dùng. các vụ ngộ độc thực phẩm do một số bếp ăn tập thể cung cấp, nhiều thông tin liên tục về tình hình ATVSTP ở một vài nước trên thế giới, cộng thêm dịch cúm gia cầm tái phát, bệnh heo tai xanh ở một số nơi trên đất nước càng làm bùng lên sự lo âu của mọi người chúng ta. Gần đây một số vấn đề liên quan đến quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, sự khác biệt giữa các kết quả phân tích kiểm tra chat lượng sản phẩm vừa gây không ít khó khăn cho người sản xuất vừa tạo thêm lo lắng cho người tiêu dùng trong khi chúng ta đang cố gắng tạo những ưu thế về nhiều mặt để có nhiều lợi thế nhất với cương vị l một thành viên bình đẳng của WTO.
Theo hệ thống cảnh báo và thông báo của Châu Au, năm 2004, trong số hàng thực phẩm Việt Nam xuất sang châu Âu, có 59 lô không đạt chất lượng (Việt Nam xếp thứ 13 trongsố các nước bị cảnh báo), con số nầy là 124 vàViệt Nam xếp thứ 7 trong năm 2005. Trong 6 tháng đầu năm 2007, nhiều lô hàng nông thủy sản xuất khẩu bị Hoa kỳ, Canada, Nhật, Nga, Singapore từ chối. Những sự kiện ấy phản ánh phần nào những tồn đọng, bất cập trong sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam trong khi đó đã vào WTO thì phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt về chất lượng ngay cả trên sân nhà.
Vấn đề then chốt là làm thế nào quản lý được tốt chất lượng nông thủy sản thực phẩm Việt Nam không nhiễm vi sinh, không chứa hóa chất bị cấm, hóa chất ngoài danh mục cho phép, hay bị nhiễm hóa chất quá giới hạn cho phép hầu nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, đóng góp được phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
I.NGUYÊN NHÂN GÂY MẤT VSATTP
I.1. Thực phẩm nhiễm vi sinh độc hại là một nguyên nhân chính yếu gây nhiều trường hợp ngộ độc thực phẩm tập thể
I.2. Hoá chất, phụ gia dùng trong nông thuỷ sản, thực phẩm có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng:
I.2.1.Hoá chất không được phép sử dụng:
+ formol, hàn the, chất tạo ngọt tổng hợp natri cyclamat, màu công nghiệp đặc biệt phẩm Sudan I, II, III, IV, para Red, Rhodamin B, Orange II… trong thực phẩm
+ clenbuterol, salbutamol làm giảm lớp mỡ dưới da, dexamethason và các dẫn xuất có tác dụng giữ nước, tăng trong giả tạo trong chăn nuôi gia súc
+ chloramphenicol, nitrofuran, fluoroquinolon, malachite green, leuco malachite green, ure trong bảo quản, chế biến thuỷ sản.
I.2.2..Hoá chất được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm, nhưng lại được dùng quá hàm lượng cho phép như các chất tạo ngọt tổng hợp saccarin, aspartam…, chất bảo quản chống mốc ( benzoic axit và các muối benzoat, sorbic axit và các muối sorbat, chất chống oxy hoá BHT, BHA, sulfit..).
I.2.3.Dư lượng thuốc trừ sâu, diệt nấm, kim loại nặng trên rau quả vượt quá mức cho phép
I.2.4.Chât độc gốc tự nhiên : tetrodotoxin trong một số thuỷ sản như cá nóc, mực xanh…, glycozit cyanogen trong một số thực phẩm như măng, khoai mì, độc tố sinh học biển gây tiêu chảy DSP, gây mất trí nhớ ASP, gây liệt cơ PSP trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ.
I.2.5.Chất độc sinh ra trong quá trình bảo quản không tốt:
+ aflatoxin trong các loại hạt như bắp, đậu phộng, hat dẻ (pistachio) bán chủ yếu trong các siêu thị
+ ochratoxin trong cà phê
+ histamin trong hải sản
I.2.6.Chất độc thôi ra từ các bao bì đi vào thức ăn : phtalat hoá dẻo chẳng hạn
!.2.7. Chất độc sinh ra trong quá trình chế biến, nấu nướng (3-MCPD và 1,3-DCP trong nước tương, acrylamid trong chiên, xào , nướng)
I.2.8.Chất độc sinh ra từ quá trình pha chế : benzen sinh ra từ các loại nước ngọt, nước tăng lực có đồng thời vitamin C và muối benzoat hiện diện
I.2.9.Chất độc gốc môi trường : kim loại nặng, PCB, dioxin ….
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
II.1. Tình hình chất lượng nông thủy sản và thực phẩm chế biến
Rõ ràng là trong tình hình hiện nay, chất lượng một số nông thủy sản và thực phẩm chế biến càn phải được đánh giá nghiêm túc để nâng cao mặt mạnh và giảm tối đa những yếu kém tồn tại.
Về phía người tiêu dùng, ở các nước phát triển, họ rất quan tâm đến chất lượng hàng hóa, đặc biệt chất lượng thực phẩm, do đó tạo được sức ép rất lớn trên nhà sản xuất cũng như nhà quản lý. Người tiêu dùng Việt Nam chắc chắn cũng có yêu cầu bức xúc về chất lượng hàng hóa, tuy nhiên do cuộc sống nói chung cũng còn không ít khó khăn cho nên yêu cầu về chất lượng vẫn chưa đủ mạnh để có thể tạo sức ép hữu hiệu trên sản xuất cũng như trên quản lý.
Về phía sản xuất, đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhà sản xuất bắt buộc vừa phải tuân thủ những quy định về chất lượng sản phẩm của nước sở tại, vừa được sự giám sát chặt chẽ của cơ quan chức năng trong nước, do đó, nhìn chung, chất lượng nông thủy sản, thực phẩm hầu hết đạt yêu cầu. Đối với việc sản xuất cho tiêu dùng trong nước, sự giám sát về mặt nhà nước ít khắt khe hơn, người sản xuất tự công bố chất lượng mặt hàng, cho nên đạo đức trong sản xuất, phương châm vì sự an toàn cho người tiêu dùng sẽ đóng vai trò chủ đạo trong quyết định chất lượng hàng hóa.Thực chất, không ít nhà sản xuất chăm chút quá nhiều đến lợi ích riêng của mình, chẳng cần nghĩ đến hệ quả xấu do mặt hàng mình có thể gây ra cho cộng đồng.
Về phía quản lý nhà nước, mặc dù đã có pháp lệnh về thú y, pháp lệnh về VSATTP, luật về thủy sản, pháp lệnh về chất lượng hàng hóa và sắp tới đây luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và các nghị định hướng dẫn thi hành, việc quản lý về mặt nhà nước vẫn còn chồng chéo, khó qui trách nhiệm, làm giảm hiệu năng quản lý. Đặc biệt trong lãnh vực VSATTP đang là vấn đề nóng bỏng, việc tổ chức thanh tra VSATTP, gần như không có tác dụng đáng kể ở cấp phường xã vì lực lượng quá mỏng.
Một đặc điểm tình hình hiện nay là cứ bộ nào được giao quản lý ngành là có xu hướng phải thành lập phòng kiểm nghiệm riêng, vừa tốn kém, vừa khó tránh được trùng lắp, vừa khó có đủ kinh phí để trang bị thật hoàn chỉnh, đáp ứng được mọi yêu cầu kiểm nghiệm sẽ rất đa dạng và khắt nghiệt trong thời gian sắp tới.
Việc kiểm tra chất lượng hàng hóa vẫn con gặp nhiều hạn chế do số phòng thử nghiệm có trình độ và kinh nghiệm còn ít và việc mở rộng hoạt động kiểm nghiệm đánh giá, chứng nhận chất lượng sản phẩm hàng hóa cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chưa that phổ biến.
II.2.MỘT SỐ GÓP Ý VỀ GIẢI PHÁP
II.2.1.Về phía cơ quan quản lý
-Trên cơ sở các luật, pháp lệnh, nghị định thi hành, chánh phủ cần xem lại phương thức tổ chức quản lý về mặt nhà nước để giảm bớt chồng chéo, ít nhiều ảnh hưởng xấu đến hiệu quả đảm bảo chất lượng nông thủy sản thực phẩm xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
-Tại các TP lớn, nên chăng có một ủy ban điều phối chung mà đứng đầu là một phó chủ tịch UBNDTP để thống nhất hành động trong việc quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, tránh dàn trải, đùn đẩy trách nhiệm, lãng phí tiền của và nhân lực. Mặt khác, cần gấp rút tăng cường và mở rộng hệ thống kiểm nghiem đến các phòng thử nghiệm của Viện, Trường Đại học, phòng thử nghiệm tư nhân nếu xét thấy hội đủ các yêu cầu quy định về chất lượng kiểm nghiệm.Trong thời gian gần đây, rõ ràng là các phòng thử nghiệm trong nước, công cũng nhừ tư đều đóng góp rất tích cực trong đảmbảo VSATTP cho xuất khẩu và tiêu dùng.
-Ở cấp phường xã, phải tăng cường hệ thống quản lý thị trường, thanh tra sản phẩm hàng hóa. Mạng lưới nầy hiện nay rất mỏng, khó có thể đảm đương đầy đủ trách nhiệm giao phó.
-Thường xuyên thông tin rộng rãi cho cả người sản xuất và người tiêu dùng những vấn đề liên quan đến chất lượng nông thủy sản thực phẩm sản xuất và lưu hành trong và ngoài nước.
– Có những biện pháp có hiệu quả buộc người sản xuất, người bán phải luôn tuân thủ các quy định về chất lượng sản phẩm hàng hóa.
-Kiểm soát chặt chẽ các loại thuốc thú y, hóa chất phu gia thực phẩm đang được bày bán trên thị trường, tránh tình trạng người mua lẫn người bán đều không hiểu bản chất và đặc trưng hoá chất sử dụng.
-Việc quản lý chất lượng thực phẩm cho chăn nuôi cũng cần phải khắt khe như thực phẩm dành cho người.
-Tổ chức các lớp đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa, đặc biệt chú trọng đến đội ngũ kiểm tra, giám định, đánh giá chất lượng.
-Tăng cường hợp tác quốc tế cực kỳ cần thiết cho lãnh vực nầy.
-Trong vấn đề kiểm tra chất lượng sản phẩm, nếu có dấu hiệu vi phạm, nên tiến hành phân tích kiểm nghiệm ở hai hay tốt hơn ở ba đơn vị chuyên môn để đảm bảo tính đúng đắn và tính pháp lý của việc xử phạt.
-Cần rà soát lại , bổ sung , thiết lập thêm các quy định liên quan đến các hoá chất, phụ gia thực phẩm đã bị cấm sử dụng ở nước ngoài. Những thành phố lớn của ta sẽ là những nơi tiếp cận nhiều mặt hàng phong phú, chất lượng tốt, nhưng chắc chắn cũng sẽ có những mặt hàng nhập khẩu kém chất lượng, thậm chí có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người. Các đơn vị kiểm nghiệm phải sẵn sàng làm tốt nhiệm vụ gác cổng của mình.
II.2.2.Về phía sản xuất:
-Tuân thủ các quy định về VSATTP trong sản xuất và lưu hành sản phẩm đúng theo tiêu chuẩn chất lượng đa công bố hoặc đã được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy.
-Không được sử dụng hoá chất phụ gia ngoài danh sách cho phép, nguyên liệu, hoá chất phụ gia không có nguồn gốc rõ ràng.
-Thường xuyên theo dõi các thông tin trong và ngoài nước, nhất là có liên quan đến các mặt hàng mình sản xuất.
– Tăng cường hợp tác với đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, xây dựng và triệt để tuân thủ hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong sản xuất để tạo ra được sản phẩm đảm bảo VSATTP có sức cạnh tranh mạnh, đáp ứng ngày càng cao an toàn cho người tiêu dùng.
II.2.3. Về phía người tiêu dùng
Thực tế là người tiêu dùng rất khó lựa chọn trước rất nhiều mặt hàng đa dạng, phong phu ở chợ, siêu thị, tuy nhiên cần quan tâm đến :
-Thương hiệu
-Thời hạn sử dụng
-Các chỉ tiêu dinh dưỡng và chỉ tiêu liên quan đến VSATTP ghi trên nhãn hàng
Phải làm sao đe chứng tỏ rằng người tiêu dùng là người quyết định chất lượng sản xuất đúng theo nghĩa khách hàng là thượng đế.
II.2.4. Về phía cơ quan truyền thông, hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các hội khoa học và kỹ thuật có liên quan
–Thông qua nhiều hoạt động đa dạng và phong phú, nâng cao kiến thức cho người tiêu dùng và cho cả người sản xuất, đăc biệt các kiến thức về chất lượng hàng hoá, về VSATTP.
-Giúp cho người sản xuất luôn cải tiến chất lượng hàng sản xuất, người buôn bán lẻ hiểu những nguyên tắc giữ hàng hóa luôn luôn đảm bảoVSATTP.
-Giúp người tiêu dùng biết cách chọn lựa hàng, nhất là trong thời gian sắp tới khi nhiều mặt hàng ngoại đa dạng được đưa vào TP trong thời kỳ hội nhập.
-Trong thực tế hiện nay, các hội phải phát huy vai trò tư vấn phản biện, giám định xã hội trong lãnh vực chuyên môn của hội.
Trong những giải pháp nêu trên, khoa học và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng. Những sự kiện xảy ra trên địa bàn TP Hồ Chí Minh trong vòng hai năm trở lại đây cho thấy những biện pháp về khoa học công nghệ không thể thiếu được trong giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của TP.
Nhà nước nên khai thác mạnh hơn nữa đội ngũ khoa học công nghệ Việt Nam, đặc biệt Liên Hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và các hội thành viên.
Thực chất đảm bảo VSATTP chỉ có thể giải quyết được tốt nếu có những biện pháp đồng bộ từ mọi người chúng ta, từ người quản lý, người sản xuất, đến người tiêu dùng đều phải đồng lòng thực hiện với mục tiêu giữ gìn sức khoẻ cho thế hệ chúng ta hôm nay và cả thế hệ con cháu chúng ta ngày mai.
GS. Chu Phạm Ngọc Sơn
Chủ tịch Hội Hoá học TP Hồ Chí Minh