Bệnh đái tháo đường theo y học cổ truyền |
Đái tháo đường là bệnh do rối loạn chuyển hóa chất glucid, kèm theo tình trạng thiếu chất insulin trong máu. Hậu quả là lượng đường trong máu tăng cao bất thường và xuất hiện đường trong nước tiểu.
|
Trong y học cổ truyền, thường không có bệnh danh một cách rõ ràng như y học hiện đại (ví dụ như bệnh tăng huyết áp, bệnh hen suyễn, bệnh viêm não…) mà chỉ có các tên gọi chỉ các chứng hoặc hội chứng. Đối với bệnh đái tháo đường Y học cổ truyền đã xem xét tất cả các triệu chứng có tên gọi là Chứng Tiêu khát. Tiêu khát là loại chứng trạng có các đặc điểm: thèm ăn nhưng ăn nhiều vẫn gây rộc đi, khát nhiều, đòi uống nước nhiều nhưng luôn cảm thấy khát và tiểu nhiều. Xem ra, các triệu chứng này khá giống với bệnh đái tháo đường theo y học hiện đại. Tuy vậy, hãy xem qua cách giải thích của y học cổ truyền về chứng Tiêu khát thông qua ngữ nghĩa của từ “Tiêu khát”. Chữ “Tiêu” trong tiêu khát hàm nghĩa thiêu đốt, đốt cháy. Trong chữ Tiêu (chữ Hán) có bộ Hỏa, để diễn tả sự thiêu đốt do Hỏa làm khô cạn tân dịch và huyết dịch trong cơ thể. Do đó, người bệnh luôn cảm thấy khô khát mặc dù uống rất nhiều nước. Ngoài ra, còn mang ý nghĩa diễn biến bệnh có liên quan đến Tam tiêu gồm Thượng tiêu (tạm gọi vùng ngực), Trung tiêu (tạm gọi vùng thượng vị) và hạ tiêu (tạm gọi vùng hạ vị, từ rốn đến xương mu). Triệu chứng khát uống nước nhiều chỉ sự liên quan đến vùng thượng tiêu. Triệu chứng ăn nhiều nhưng luôn thấy đói là bệnh ở trung tiêu, còn hiện tượng uống nhiều nhưng tiểu nhiều là bệnh ở hạ tiêu. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và các yếu tố thuận lợi Dinh dưỡng: do ăn quá nhiều các thức ăn có tính Nhiệt như chất ngọt, hoặc uống nhiều rượu. Dần dần, Nhiệt tích tụ trong cơ thể (chủ yếu ở Vị – có thể tạm hiểu là dạ dày) gây ra tình trạng đói nhiều, thèm ăn nhưng thức ăn bị nhiệt nung đốt làm tiêu hóa nhanh, do đó luôn cảm thấy đói. Ngoài ra, nhiệt tích tụ nhiều ở Vị cũng làm tổn thương Thận âm (theo Đông y) theo qui luật Ngũ hành, gây nên triệu chứng tiểu nhiều. Tâm thần: Đông y đã dùng chữ “thần chí thất điều” để chỉ tình trạng thần kinh căng thẳng quá mức (stress), lao tâm lao lực quá độ mà không nghỉ ngơi đầy đủ, làm dần gây nên tình trạng Hỏa nhiệt gây ảnh hưởng xấu cho cơ thể như đã nói trên. Bẩm sinh: Đông y gọi là “Tiên thiên bất túc” gây nên tình trạng “âm hư” trong cơ thể như khát nước, uống nước nhiều nhưng cũng tiểu nhiều lần, nước tiểu nóng rát. Đây cũng chính là yếu tố di truyền đã được đề cập đến trong các y văn y học hiện đại. Phân loại theo thể bệnh Như trên đã nói về diễn tiến bệnh chứng Tiêu khát có liên quan đến Tam tiêu, nên cách phân chia thể bệnh theo y học cổ truyền cũng dựa theo triệu chứng của mỗi vùng cơ thể là thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Bệnh ở thượng tiêu: Đông y gọi là phế âm hư (vùng thượng tiêu thuộc phế) bao gồm các triệu chứng sau: khát nước nhiều, uống nước vào thì đi tiểu ngay và tiểu rất nhiều. Miệng họng khô, đầu lưỡi đỏ, đờm dặc dính, lưỡi khô, đầu lưỡi đỏ, mạch nhanh (sác). Các vị thuốc thường dùng trong trường hợp này là: Nhân sâm, Mạch môn, Sinh địa, Phục linh, Kim ngân hoa, Thạch cao, Hoàng liên, rễ Tranh, Cam thảo… Một bài thuốc tham khảo: thiên môn 12g, mạch môn 12g, thạch cao 20g, sa sâm 12g, hoài sơn (tán bột) 12g, Tâm sen 08g, sinh địa 20g, sơn thù 08g. Bệnh ở trung tiêu: Đông y gọi là vị âm hư (vùng trung tiêu thuộc vị) gồm các triệu chứng: Ăn nhiều nhưng mau đói, người gầy, luôn thấy nóng nảy bứt rứt, táo bón, tiểu nhiều, rêu lưỡi vàng, đổ mồ hôi nhiều ngay cả khi nghỉ ngơi (tự hãn). Các vị thuốc thường dùng: Thạch cao, Sinh địa, Huyền sâm, Mạch môn, Hoàng cầm, Tri mẫu, Ngưu tất, chi tử, Ý dĩ. Bài thuốc tham khảo: Thạch cao 20g, Sinh địa 12g, Huyền sâm 12g, Hoàng càm 12g, Ý dĩ 16g, Chi tử 10g. Bệnh ở hạ tiêu: gọi là thận âm hư (vùng hạ tiêu thuộc thận) có các triệu chứng nổi bật như tiểu rất nhiều, uống bao nhiêu tiểu hết bấy nhiêu, ngực thấy nóng, choáng váng, hoa mắt, đau lưng mỏi gối, lưỡi khô, mạch nhanh nhưng khó bắt. Thuốc thường dùng: bài Lục vị hoàn (Sinhh địa, Hoài sơn, Sơn thù, Đan bì, Trạch tả, Phục linh) thêm Nhục quế, Mạch môn, Ngũ vị… Bài thuốc tham khảo: Lục vị địa hoàng gia vị Sinh địa 20g, Hoài sơn 20g, Sơn thù 8g, Đan bì 12g, Kỷ tử 12g, Thạch hộc 12g, Trạch tả 8g, Sa sâm 8g. Đây chỉ là những thuốc thường dùng, ngoài ra còn tùy thuộc vào một số triệu chứng khác để thêm bớt các vị thuốc hoặc liều lượng của chúng. |
T/c Thuốc & Sức khỏe, số 322, tr 24 |