Trinh nữ hoàng cung – dược liệu quý trong điều trị u bướu |
|
Trinh nữ hoàng cung (TNHC) từ lâu đã được coi là vị thuốc quý, nhân dân ta thường dùng để điều trị một số bệnh của phụ nữ. Nhưng đó cũng chỉ là những bài thuốc dân gian được lưu truyền mà chưa có cơ sở khoa học rõ ràng. Cách đông trồng cây trinh nữ hoàng cung Tuy nhiên, gần đây có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về cây TNHC đã chứng minh nhiều thành phần dược liệu có trong lá cây có tác dụng rất tốt trong việc hỗ trợ điều trị các bệnh u xơ tử cung, u nang buồng trứng, u xơ tiền liệt tuyến. Theo tài liệu của GS Đỗ Tất Lợi, cây TNHC (Crilum latifolium L.) họ thủy tiên, thuộc loài cây thân thảo, gần giống cây náng hoa trắng thân hành, đường kính 10-16cm, bẹ lá úp vào nhau thành thân giả dài khoảng 8-15cm, có màu đỏ tía, lá mỏng hình dải, mép lá dài 70-120cm, rộng 3-9cm, gân lá song song. Từ năm 1984-1989 nhiều nhà khoa học ấn Độ và Nhật Bản đã tìm thấy trong cây TNHC một số dẫn chất ancaloit có tác dụng chống ung thư. Tại Việt Nam, từ những năm 1990, nhân dân ta sử dụng TNHC để chữa những trường hợp u xơ và ung thư tử cung (đối với phụ nữ), u xơ và ung thư tuyến tiền liệt (đối với nam giới). Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về TNHC đã công bố về thành phần hóa học của nó có khoảng 32 loại alcaloids. Trong số đó đáng quan tâm là một số alkaloids có tác dụng chống phát triển khối u như: crinafolin, crinafolidin, licorin và b-epoxyambellin tác dụng trên tế bào T-lymphocyte và còn có tác dụng kháng khuẩn như hamayne (bulbispenmin, flavonoid, demethylcrinamin). Chất alcaloid chiết xuất từ lá cây TNHC có tác dụng điều trị chứng phì đại lành tính ở tuyến tiền liệt – Đây là công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trâm – Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp Bộ và các nhà khoa học trong và ngoài nước như Giáo sư Đỗ Tất Lợi, cùng với các nhà khoa học của các viện nghiên cứu, viện hàn lâm khoa học như TSKH D.Fuchs thuộc Viện Hóa học và Hóa sinh học các hoạt chất chống ung thư và AIDS (áo) và cùng với GS.VS Simeon Popov, E.Zvetkova (Bungaria) nghiên cứu quy trình chiết xuất và xác định thành phần hóa học của alcaloid. Sau hơn 15 năm nghiên cứu về cây thuốc quý này với các đề tài cấp Bộ được đánh giá cao, TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm đã hoàn thiện quy trình công nghệ chiết xuất chất alcaloid từ cây TNHC dùng làm nguyên liệu sản xuất thuốc điều trị u xơ tuyến tiền liệt, u xơ tử cung. Qua nhiều thử nghiệm lâm sàng ở các bệnh viện lớn như Bệnh viện Phụ sản TW, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Y học cổ truyền TP Hồ Chí Minh, chế phẩm CRILIN với thành phần chính là alcaloid chiết xuất từ lá cây TNHC có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, phòng ngừa, hỗ trợ điều trị các bệnh khối u: U xơ tuyến tiền liệt, u xơ tử cung, u nang buồng trứng. CRILIN có hiệu quả rõ rệt trong việc làm giảm kích thước khối u, nhờ đó làm giảm nhanh chóng các rối loạn tiểu tiện như tiểu khó, tiểu buốt, tiểu nhiều lần vào ban đêm. Tuy nhiên, người dân không nên tự ý đi tìm cây TNHC về sắc uống, TS Nguyễn Thị Ngọc Trâm – người đã có hàng chục năm nghiên cứu và là chủ nhân của giải thưởng Kovalevskaia về công trình khoa học liên quan đến cây trinh nữ hoàng cung khuyến cáo, bởi lẽ ở Việt nam có 12 cây thuộc chi crinum giống cây TNHC, trong đó có cây náng trắng có độc tính cao, ảnh hưởng đến gan, thận rất dễ bị ngộ độc, thậm chí có thể gây vô sinh.. Với các bệnh nhân u bướu, khi sử dụng các chế phẩm từ cây TNHC chỉ nên dùng các loại thuốc đã qua nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng và đã có ý kiến từ thầy thuốc. Nguồn: Anninhthudo |